[Dịch] Cách dùng từ – On Writing Well (7)

Sao từ này thì đắt còn từ kia rẻ tiền? Tôi không có câu trả lời cụ thể, bởi không có một luật cố định nào cho việc dùng chúng. Ngôn ngữ giống như một tấm lụa, được dệt nên từng tuần với những sợi vải mới được thêm vào và những sợi cũ bị loại bỏ.

Bản dịch mà bạn đang đọc được thực hiện với mục đích cá nhân và chia sẻ trên blog này hoàn toàn phi thương mại. Tôi không sở hữu bản quyền của cuốn sách gốc, vì vậy, tôi xin khuyến khích mọi người tìm đọc bản gốc để ủng hộ tác giả và cảm nhận đầy đủ ý nghĩa tác phẩm.

Tôi chỉ là một người yêu việc viết lách và không phải là một dịch giả chuyên nghiệp, do đó bản dịch này có thể sai sót hoặc chưa truyền tải chính xác tinh thần của tác phẩm. Nếu phát hiện bất kỳ lỗi nào hoặc có góp ý, mong bạn chia sẻ để bản dịch được hoàn thiện hơn.

Cảm ơn bạn đã ghé thăm blog, và hy vọng rằng những nội dung trong bản dịch này có thể mang lại giá trị cho bạn!

PHẦN 1 – NHỮNG QUY TẮC


CHƯƠNG 6: CÁCH DÙNG TỪ

Việc bàn luận về từ hay và dở đưa chúng ta đến một khu vực mơ hồ và gây tranh cãi, được gọi là cách dùng từ. Cách dùng từ như thế nào được xem là hiệu quả? Và điều gì làm nên một ngôn ngữ Anh hay? Những từ mới được tạo ra có OK để dùng, và ai sẽ là thẩm phán? Có OK không khi dùng OK? 

Trước đó tôi đã đề cập đến việc các sinh viên đại học gây rắc rối cho giám hiệu, và ở chương gần nhất tôi miêu tả bản thân là kẻ cuồng si. Đây là hai ví dụ khá gần. “Gây rắc rối” vừa có nghĩa là tạo nên khó khăn rắc rối cho ai đó, vừa có nghĩa là trải qua một khoản thời gian khó khăn và tất cả những ai từng bị gây rắc rối khi không điền đúng mẫu đơn hoàn thuế thu nhập đều đồng ý là âm thanh này cực kỳ chính xác. “Kẻ cuồng si” có nghĩa là một người đam mê, và không thể bỏ qua hào quang của đam mê ấy khi gọi ai đó là “một người mê jazz,” “một kẻ cuồng cờ vua,” hoặc “một người say mê ánh nắng mặt trời,” mặc dù có lẽ tôi đang vượt quá giới hạn khi miêu tả một người đàn ông thường xuyên ghé thăm những show diễn xiếc như một kẻ “say mê sự kỳ dị” (freak freak). 

Dù sao thì, tôi chấp nhận cả hai cách dùng này một cách vui vẻ. Tôi không coi chúng là tiếng lóng hoặc đặt dấu ngoặc kép xung quanh để thể hiện rằng mình đang chơi với ngôn ngữ của tụi trẻ (và cũng biết cách chơi đấy). Chúng đều tốt và chúng ta cần chúng. Nhưng tôi không chấp nhận được “đáng chú ý”, “tuyệt vời”, “sắp đến” và nhiều từ ngữ nữa sẽ có mặt. (Với tôi) chúng rẻ tiền và vô dụng.  

Sao từ này thì đắt còn từ kia rẻ tiền? Tôi không có câu trả lời cụ thể, bởi không có một luật cố định nào cho việc dùng chúng. Ngôn ngữ giống như một tấm lụa, được dệt nên từng tuần với những sợi vải mới được thêm vào và những sợi cũ bị loại bỏ. Ngay cả những người cuồng chữ cũng tranh cãi nhau về những gì chấp nhận được và thường đưa ra quyết định dựa trên ý thích chủ quan (“đáng chú ý” nghe tục quá!). Rốt cuộc vấn đề này dẫn tới một câu hỏi: Ai đã định hình cách nhìn của chúng ta?

Vào những năm 1960, các biên tập viên của một cuốn từ điển mới – The American Heritage Dictionary – đã đặt ra câu hỏi này. Họ đã tập hợp một “uỷ ban cách dùng” giúp đánh giá các từ mới và những cấu trúc đáng ngờ. Cái nào được giữ lại, cái nào cần thanh trừ? Uỷ ban này gồm 104 quý ông và quý cô – hầu hết là các nhà văn, nhà thơ, biên tập viên và giáo viên – những người quan tâm đến ngôn ngữ và muốn sử dụng chúng thật đúng đắn. Tôi cũng là một thành viên, và trong vòng vài năm sau đó tôi liên tục nhận được các câu hỏi. Tôi có chấp nhận “xong xuôi” và “leo thang” không? Tôi cảm thấy thế nào về “đây là tôi”? Tôi có cho phép “cũng như” được dùng như một liên từ – giống rất nhiều người khác? Vậy còn “vô cùng” trong “vô cùng tuyệt vời” thì sao? (Nguyên nghĩa, tác giả dùng “might” trong “might fine”, với might có nghĩa là “có thể”, nhưng cũng được hiểu là “vô cùng”, khi ở trong cụm “might fine” – vô cùng tuyệt vời).

Chúng tôi được biết rằng quyển từ điển sẽ có phần “Ghi chú cách dùng” để tổng hợp những ý kiến của chúng tôi, giúp người đọc thấy được chúng tôi đã bình chọn thế nào. Bảng câu hỏi cũng dành chỗ để đưa ý kiến – cơ hội mà chúng tôi đã tận dụng với tất cả đam mê rồi mới biết chúng được in trong từ điển và được công khai với báo chí, điều càng khiến sự nhiệt thành tăng cao. “Ôi Chúa ơi, không! Không bao giờ!” Barbara W. Tuchman kêu lên khi được hỏi về động từ “là tác giả”. Không có gì gây phẫn nộ như việc bắt một người tôn thờ sự trong sáng của ngôn ngữ phải đối mặt với những chắp vá như thế. Tôi đứng về phía Tuchman trong trường hợp “là tác giả”, cũng như tôi đã đồng ý với Lewis Mumford rằng trạng từ “tốt” nên được gìn giữ như “một tài sản độc quyền của Ernest Hemingway”. 

 Nhưng những vệ binh ngôn từ này mới xong một nửa phận sự nếu chỉ bảo vệ ngôn ngữ khỏi sự cẩu thả. Bất kỳ người ất ơ nào cũng có thể phán quyết rằng hậu tố “khôn ngoan” trong “khôn ngoan sức khỏe” là khôn ngoan ất ơ. Hoặc việc trở nên “khá độc đáo” cũng khả thi như việc “khá mang thai”. Nửa phận sự còn lại là giúp ngôn ngữ phát triển hơn, bằng cách chào đón bất kỳ “từ nhập cư” nào có màu sắc và sức mạnh. Vì vậy tôi rất vui khi 97% đã bầu cho “bỏ học”, từ này quá sinh động; nhưng chỉ 47% đồng ý với “công dân cấp cao”, điển hình của những kẻ xâm lược béo lùn mới đến từ ngành xã hội học, nơi một người nhập cư bất hợp pháp được gọi là “cư dân không giấy tờ”. Tôi cũng mừng vì ta chấp nhận từ “leo thang”, kiểu từ mà tôi vốn không thích cho tới khi cuộc chiến ở Việt Nam mang đến cho nó một ý nghĩa chính xác, sai với sai thành ra đúng. 

Tôi cũng vui mừng vì giờ đây những từ mạnh mẽ, từng bị các từ điển trước liệt vào nhóm “tầm thường” đã được chấp nhận hoàn toàn: tính từ như “gắt gỏng”, động từ như “kích thích” và “chọc giận”, danh từ như như “đống rối nùi”, “ông trùm” và “di chuyển mạo hiểm” (trek), từ cuối được 78% đồng thuận để chỉ bất kỳ chuyến đi khó khăn nào, ví dụ như “cuộc di chuyển mạo hiểm hàng ngày vào Manhattan”. Ban đầu, nó là một từ trong tiếng Hà Lan chỉ chuyến đi gian nan bằng xe bò của của người Boer. Nhưng rõ ràng, xét về độ cam go của việc tham gia giao thông thì đi làm ở Manhattan cũng chẳng kém. 


*Cape Dutch là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ ngôn ngữ và văn hóa được phát triển tại Cape Colony (tên gọi cũ của Nam Phi) vào thế kỷ 17 và 18. Đây là một ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Hà Lan và các yếu tố của tiếng Khoekhoe, tiếng Malay, và tiếng Bantu.

*Người Boer là người dân gốc Hà Lan (cùng với một số người gốc Đức và Pháp) ở Nam Phi. Thuật ngữ “Boer” có nguồn gốc từ từ tiếng Hà Lan “boer”, có nghĩa là “nông dân” hoặc “nông dân nghèo”.

Vẫn có 22% không hài lòng khi “chuyến đi mạo hiểm” trở thành chuyện phổ biến. Đó là ưu điểm của việc tiết lộ cách chúng tôi làm việc – công khai các quan điểm để những người hoài nghi có thể tự mình ra quyết định. Do đó 95% chúng tôi chống lại “bản thân tôi” (myself), như trong “Anh ta mời Mary và bản thân tôi đi ăn tối”, một từ bị kết án là “tự mãn”, “khủng khiếp” và “chủ nghĩa màu mè”. Một cảnh báo cho bất kỳ ai không muốn trở nên tự mãn, khủng khiếp hoặc màu mè. Như Red Smith góp lời, “Bản thân tôi là chốn dung thân của mấy thằng ngu được dạy từ sớm rằng “tôi” là một từ bẩn thỉu”. 

Mặt khác, chỉ 66% bác bỏ từ “gọi cho”, từng bị coi là thô tục, và chỉ có một nửa phản đối việc chia động từ vô định và các từ “trách tội”, “bằng bus”. Nên chỉ 50% người đọc sẽ trách tội nếu bạn đến thị trấn khác bằng bus. Nếu bạn gọi cho ban giám hiệu, bạn sẽ mạo hiểm thêm 16% danh tiếng. Quy tắc hiển nhiên của chúng tôi được Theodore M. Bernstein, tác giả The Careful Writer phát biểu: “Ta nên áp dụng thử xem chúng có tiện lợi không. Từ này có thực sự cần thiết không? Nếu cần, hãy sử dụng nó.

Tất cả những điều này xác nhận niềm tin của những nhà từ điển học: Các quy tắc là tương đối, uốn cong theo sở thích của người làm luật. Một trong những thành viên của hội đồng, Katherine Anne Porter, bảo “O.K” là một sự thô tục gớm ghiếc và cô chưa từng nói từ đó trong đời. Trong khi tôi thì thoải mái thừa nhận tôi nói nó hoài. “Hầu hết”, trong “hầu hết mọi người”, bị Isaac Asimov coi là “lối nói chuyện hồn hậu kiểu nông dân” và Virgil Thomson gọi là “thành ngữ tiếng Anh hay”. 

“Chế độ”, có nghĩa là bất kỳ chính quyền nào, như trong “chế độ Truman” đã được hầu hết mọi người chấp nhận, tương tự như với “triều đại”. Nhưng họ lại làm Jacques Barzun, người tuyên bố “Đây là những thuật ngữ chuyên môn chứ không phải trò đùa của mấy người dốt sử”, phẫn nộ. Hình như tôi O.K với chế độ nhưng nhìn lại sự khiển trách của Barzun, tôi thấy từ này cũng khá là lá cải. Một trong những từ tôi phản đối là “ngôi sao” trong “ngôi sao truyền hình” (TV personality). Nhưng giờ tôi tự hỏi liệu đó có phải là từ duy nhất để chỉ vô số những người nổi tiếng chỉ vì sự nổi tiếng? Chị em Gabor thực gì làm gì? 

*Chị em Gabor là những người nổi tiếng tương tự như nhà Kardashian.

Cuối cùng thì sử dụng ngôn ngữ “đúng” như thế nào? Chúng ta không có vua để đặt ra “Tiếng Anh của Vua”, ta chỉ có Tổng thống – mà lại chẳng thích “Tiếng Anh của Tổng thống”. Từ điển Webster, người bảo vệ ngôn ngữ trung thành lâu nay, bỗng làm đục nước vào năm 1961 với bản sửa đổi lần 3 khi cho rằng hầu hết các từ đều được chấp nhận miễn là có người sử dụng, với ghi chú rằng “ain’t” được hầu hết những người Mỹ có trình độ cao sử dụng. 

Tôi không chắn là Webster đã tìm thấy những người trình độ cao ấy ở đâu. Nhưng phải đồng ý rằng ngôn ngữ nói thì phóng khoáng hơn ngôn ngữ viết, và từ điển American Heritage đã đặt câu hỏi cho chúng tôi ở cả hai hình thức. Tôi hoàn toàn hiểu việc chúng ta chấp nhận những từ cửa miệng khi nói nhưng lại từ chối chúng trong văn viết vì quá thiếu nghiêm túc, tuy nhiên “phép vua thì thua lệ làng”, như Samuel Johnson nói (nguyên văn: “the pen must at length comply with the tongue” – cái bút phải theo cái lưỡi) và cái bỏ đi của hôm nay có thể trở thành kho báu của ngày mai. Sự chấp nhận ngày càng rộng rãi các phân cách ngoại động từ và sự xuất hiện của giới từ ở cuối câu chứng tỏ ngữ pháp chính thức không thể mãi mãi đối đầu với những cách diễn đạt thoải mái của văn nói, và điều đó cũng không nên. Đặt giới từ ở cuối câu là điều tuyệt vời!

Chúng tôi còn nhận ra rằng cái gọi là chính xác có thể lung lay trong chính một từ. Có một sự phản đối mạnh mẽ trong việc sử dụng “một hội” làm từ đồng nghĩa của “đồng nghiệp”, trừ khi bạn có ý định đùa cợt. Một giáo sư sẽ không có những người cùng “một hội” với mình trong cuộc họp hội đồng giảng viên, nhưng đổi lại ông sẽ có hội của mình trong buổi họp mặt cựu sinh viên, cùng đội những chiếc mũ hài hước. Chúng tôi từ chối dùng “quá” làm từ đồng nghĩa với “lắm”, như trong câu “Sức khoẻ của anh ấy không quá tốt” (Ai có sức khoẻ tốt tới vậy?) Nhưng nó được chấp nhận với ngữ cảnh châm biếm, hài hước như “Vui quá nhỉ khi anh ta bị cô ấy phớt lờ.”

Dường như đây chỉ là chuyện tủn mụn. Nhưng thực tế chúng lại quan trọng, vì đó là tín hiệu cho người đọc thấy rằng bạn nhạy cảm trong cách dùng từ. Để “quá” thế chỗ “lắm” là một sự lộn xộn: “Anh không cảm thấy quá muốn đi uống bia.” Nhưng các ví dụ hài hước ở đoạn trên thì có thể bỏ vào tác phẩm của Ring Lardner, bởi chúng mang đến một màu sắc châm biếm khó tìm thấy ở nơi khác.

May mắn thay từ các thảo luận của chúng tôi một mô hình đã xuất hiện, mang đến sự hướng dẫn hữu ích. Chúng tôi phát hiện ra mình rất cởi mở khi chấp nhận các từ và cụm từ mới nhưng lại bảo thủ với ngữ pháp.

Sẽ thật ngốc nghếch nếu từ chối một từ hoàn hảo như “bỏ học” hoặc quay lưng với việc hàng ngàn kẻ ngoại đạo mới không ngừng xâm nhập vào vùng đất ngôn ngữ đúng đắn mỗi ngày, qua làn sóng khoa học và công nghệ, kinh doanh và thể thao cũng như sự thay đổi của xã hội: ngoại vi, trang blog, máy tính xách tay, người mê công nghệ, thế hệ Z, Google, iPhone, đa nhiệm, cú ném hụt… và còn nhiều nữa. Đừng quên tất cả những từ được sáng tạo bởi văn hoá phản kháng vào những năm 1960 như lời đáp trả những ngôn ngữ tự mãn của thế lực chính thống: đi trip, nhạc rap, gãy, rác rưởi, phong cách sôi động, chia rẽ, bắt sóng, xuống quá. Nếu ngắn gọn được xem là giải thưởng thì đây là những từ được vinh danh. Vấn đề duy nhất là chúng thoắt đến, thoắt đi. Những sự kiện (happening) của thời 1960 đã không còn xảy ra, điều tuyệt vời (out of sight) đã khuất mắt, và thậm chí “căng cực” (awesome) cũng bắt đầu “dịu dịu” (chill out). Ai đã quan tâm đến cách sử dụng thì cũng phải biết phân biệt ngôn ngữ sống và chết một cách nhanh chóng. 

Sự bảo thủ của chúng tôi được thể hiện trong việc tuân thủ những phân biệt kinh điển về ngữ pháp – như khả năng và có thể, ít hơn và một ít, anh chị cả và già nhất v.v.. cũng như lên án những sai lầm cố hữu, rằng “coi thường” không phải là “phô trương”, dù có thật nhiều người viết vẫn phô trương sự thiếu hiểu biết của họ bằng cách coi thường các nguyên tắc; nhưng “tình cờ” thì cũng như “ngẫu nhiên”, “khách quan” thì gần với “vô tư” trong khi “suy luận” lại không cùng nghĩa với “ngụ ý”. Chúng tôi được thúc đẩy bởi tình yêu với sự chính xác tuyệt đẹp của ngôn ngữ. Việc sử dụng không đúng cách sẽ làm ta mất đi những độc giả mà ta muốn chinh phục nhất. Hãy biết sự khác biệt giữa “tham chiếu” và “ám chỉ”, “âm mưu” và “đồng phạm”, “so với” và “giống như”. Và nếu bạn phải “bao gồm” thì hãy dùng nó chính xác như như một bữa tối với thịt, khoai tây, salad và món tráng miệng.

“Tôi luôn chọn hình thức ngữ pháp đúng, trừ phi nó quá cứng nhắc”, Marianna Moore giải thích, và đó cũng là quan điểm cuối cùng của chúng tôi. Chúng tôi không phải là những người khó tính, mải mê lỗi phải đúng sai đến mức không cho ngôn ngữ cập nhật cái mới mẻ. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi chấp nhận mọi sự dã man đang kéo tới.

Và như vậy cuộc chiến vẫn tiếp diễn. Hiện giờ tôi vẫn nhận được phiếu khảo sát từ Từ điển American Heritage để hỏi về những cách diễn đạt mới: động từ như “cụ thể hoá”, danh từ như “sự phải chăng”, cách diễn đạt thực dụng như “con số cuối cùng” hay những từ không phổ biến như “hứng thú”

Ngày nay không cần một uỷ ban để nhận ra các thuật ngữ chuyên môn đang tràn ngập cuộc sống hàng ngày và ngôn ngữ của chúng ta. Tổng thống Carter đã ký một sắc lệnh yêu cầu viết các quy định liên bang sao cho “đơn giản và rõ ràng”. Thẩm phán toà án tối cao Janet Reno dưới thời Clinton kêu gọi những luật sư thay thế nhiều ngôn ngữ pháp thành bằng những từ ngắn và thông dụng – như “đúng”, “sai” và “công bằng” sao cho mọi người dễ hiểu. Các công ty thuê các cố vấn để viết dễ tiếp thu hơn, thậm chí ngành bảo hiểm cũng đang viết lại nội dung các chính sách bằng ngôn ngữ ít đáng sợ hơn về những đền bù mà ta nhận được khi điều không may xảy ra. Chưa biết những nỗ lực này sẽ có kết quả tốt thế nào, tôi không muốn đặt cược vào kết quả. Tuy nhiên, nhìn thấy những vệ binh như Canute, đứng trên bãi biển – ngăn từng đợt thuỷ triều, cũng là một loại an ủi. Đó là nơi là những người viết cẩn thận nên đứng – nhìn vào những mảnh vụn ngôn từ mà sóng biển mới cuốn lên vào tự hỏi “ta có cần nó không?”.

Tôi nhớ lần đầu được hỏi “Điều đó tác động (impact) thế nào tới bạn?”, tôi đã nghĩ ngay “tác động” là danh từ cơ mà, trừ phi nó được dùng trong thuật ngữ nha khoa. Sau đó thì tôi bắt đầu đụng phải “giảm tác động”, trong các chương trình giảm thiểu tác động tiêu cực của những tình huống khó khăn, khủng hoảng. Các danh từ biến thành động từ sau một đêm. Chúng tôi đặt mục tiêu và truy cập thông tin. Các nhân viên hướng dẫn tàu thông báo rằng tàu sẽ không có trạm. Một thông báo ở cửa máy bay bảo rằng nó cảm biến. Các công ty hạ quy mô. Đấy là một phần của nỗ lực tiếp diễn để phát triển. “Tiếp diễn” là một từ thuộc ngữ cảnh nâng cao tinh thần. Chúng ta đối mặt với công việc hàng ngày một cách nhiệt huyết hơn nếu sếp ta bảo rằng đó là “dự án tiếp diễn”, ta thậm chí đóng góp tử tế hơn cho các quỹ nếu nó dành cho các nhu cầu tiếp diễn. Mặt khác, ta có thể trở thành nạn nhân của việc không tạo động lực. Còn nữa, tôi có đủ ví dụ cho cả quyển sách, nhưng đó sẽ là loại sách không ai muốn đọc. Quay lại với câu hỏi ban đầu nhé: Cách dùng là gì? Một cách tiếp cận hữu ích là cố gắng phân biệt sử dụng ngôn ngữ thông thường và biệt ngữ.

Tôi sẽ cho rằng, ví dụ như, “Ưu tiên” là biệt ngữ – một động từ mới nghe có vẻ quan trọng hơn “xếp hạng”, và rằng “kết quả cuối cùng” là cách dùng ngôn ngữ ẩn dụ mượn từ lĩnh vực kế toán để truyền đạt một hình ảnh ta có thể hình dung. Như mọi doanh chủ đều biết, kết quả cuối cùng là điều ưu tiên nhất. Nếu ai đó nói “Kết quả cuối cùng là ta không thể hợp tác với nhau”, chúng ta hiểu điều đó có nghĩa gì. Tôi chẳng thích cụm từ này lắm, nhưng sự thật là nó đã trụ lại. 

Những cách dùng từ mới cũng xuất hiện với các sự kiện chính trị mới. Như cách mà chiến tranh Việt Nam góp từ “leo thang”, vụ Watergate mang đến một tập hợp từ ngữ biểu đạt sự cản trở và lừa dối, bao gồm vứt đi (deep-six), tẩy rửa, danh sách kẻ thù và các vụ bê bối khác với hậu tố “gate” (Vụ bê bối ở Iran – Irangate). Điều mỉa mai là dưới thời Richard Nixon, “tẩy rửa” đã trở thành một từ không sạch. Ngày nay, khi nghe rằng ai đó đã “rửa” tiền để che giấu nguồn gốc và con đường của nó, ta biết nó chính xác có ngụ ý như vậy. Nó ngắn gọn, sống động và ta cần nó. Tôi chấp nhận từ này và cả từ trì hoãn (stonewall); nhưng sẽ nói không với “ưu tiên” (prioritize) và “không khuyến nghị” (disincentive). 

Tôi đề xuất một nguyên tắc tương tự để phân biệt các từ ngữ được dùng tốt và các từ chuyên ngành. Đó là sự khác biệt giữa, ví dụ như, bản in (printout) và đóng góp (input). Một bản in là một đối tượng cụ thể mà máy tính tạo ra. Trước khi máy tính xuất hiện thì nó không tồn tại nhưng giờ nó cần thiết và sẽ đứng yên trong nghĩa này. Không giống với đóng góp, được tạo ra để miêu tả thông tin được cung cấp cho máy tính. Chúng ta được yêu cầu đóng góp ý kiến ​​về mọi chủ đề, từ chế độ ăn đến diễn thuyết triết học (“Tôi muốn nghe đóng góp của bạn về việc liệu Thiên Chúa có tồn tại thật sự không”).

Tôi không muốn “đóng góp” (input) cho ai đó chỉ để nhận lại “phản hồi” (feedback) nhưng tôi sẵn lòng đưa ra ý tưởng của mình và lắng nghe ý kiến của họ về những ý tưởng ấy. Với tôi, cách dùng chuẩn bao gồm dùng những từ tốt nếu nó đã tồn tại (lẽ thường là vậy) – để diễn đạt một cách rõ ràng và đơn giản đến người khác. Có thể nói, đây là cách tôi diễn đạt mối quan hệ giữa các cá nhân.


Posted

in

by

Tags:

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *